Sự thật về lá thư Trịnh Công Sơn gửi Ngô Kha
Sau khi đăng bài Thư của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi nhà thơ Ngô Kha của nhà thơ Thái Ngọc San (Thanh Niên ra ngày 26/6/2004), chúng tôi đã nhận được nhiều ý kiến về bài viết này. Số báo này xin được đăng ý kiến phản hồi của nhà thơ Lê Minh Quốc - người đã thực hiện một tập sách có in bức thư này - xung quanh việc có hay không lá thư của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi nhà thơ Ngô Kha.
Trong những lần đến Huế, một trong những người mà tôi thường tìm gặp là
nhà thơ Thái Ngọc San. Để được anh giới thiệu về di tích, thắng cảnh và
những văn nghệ sĩ ở một vùng đất mà nói theo Bùi Giáng là "Vẫn còn núi Ngự trên bờ sông Hương".
Còn nhớ trước ngày khai mạc Festival Huế lần thứ nhất, ngồi uống bia
Huda bên dòng Hương Giang, anh San đã nhiệt tình giúp đỡ tôi rất nhiều.
Từ đó, trong thâm tâm tôi luôn dành cho anh nhiều tình cảm quý mến. Nay
trên Báo Thanh Niên số ra ngày 26/6/2004, thấy tên anh đứng dưới bài
báo Thư của Trịnh Công Sơn gửi nhà thơ Ngô Kha in trên báo Thơ: Thực hay giả, tôi vội đọc trước nhất. Qua bài viết của anh, tôi nhận thấy vấn đề anh nêu ra là đúng, được nhiều người quan tâm.
Vậy có hay không lá thư của Trịnh Công Sơn gửi Ngô Kha?
Là người "trong cuộc" tôi tự nghĩ mình phải viết bài báo này. Nói như thế bởi nguyên cớ như sau: Ngay sau khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất, từ Hà Nội, chị Trần Thu Hương - Giám đốc NXB Phụ Nữ gọi điện thoại cho tôi, bảo: "Quốc có thể làm gấp cho chị một tập sách gì về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không?". Không một chút ngần ngừ, tôi đáp là "được", vì từ lâu nay, tôi đã có ít nhiều sưu tập về Trịnh Công Sơn. Nhưng quan trọng hơn là thế hệ tôi hoặc thế hệ đàn anh của tôi ít nhiều đã được âm nhạc của Trịnh Công Sơn nuôi dưỡng tâm hồn. Chúng tôi lớn lên và từng có những lúc sống trong những giai điệu bát ngát ấy. Khi nghe lời đề nghị làm một tập sách về người mà mình ngưỡng mộ, quả là một sự thú vị. Nghĩ thì nghĩ thế. Nhưng một khi làm mà sách bán không được thì phụ lòng của người đã tin cậy mình. Vì thế trong tập sách này, tôi nghĩ, phải có gì mới hơn các tập đã in và sẽ in về Trịnh Công Sơn.
Lâu nay, công chúng đã biết về tình ca, phản chiến, quê hương, thân phận con người... trong các ca khúc của anh Sơn, nhưng thực chất con người chính trị của anh như thế nào? Nếu có một tài liệu gì về vấn đề này thì chắc chắn sẽ hấp dẫn bạn đọc, vì chưa có mấy ai đề cập đến một cách cụ thể. Suy nghĩ như thế nên khi làm tập sách Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người (NXB Phụ Nữ - 1991), bên cạnh bài viết của nhiều người, tôi quyết định chọn in Thư gửi Ngô Kha. Đây là lần đầu tiên Thư gửi Ngô Kha được công bố trên sách. Để bạn đọc phần nào hiểu thêm về lá thư này, tôi viết "chapeau" như sau: "Ngô Kha sinh năm 1935 tại Huế, là bạn thân với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư phạm Huế (1958 - 1959) và sau đó đi dạy học. Anh cùng Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San chủ trương tập san Tự quyết. Từ năm 1972, anh chủ trương tập san Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung do Thành ủy Huế chỉ đạo. Trong thời gian hoạt động phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, Ngô Kha đã bị chính quyền Sài Gòn bắt giam ba lần vào các năm 1966, 1971 và lần cuối cùng bị thủ tiêu bí mật sau Hiệp định Paris, 1973. Hiện nay, Ngô Kha đã được Nhà nước ta phong liệt sĩ. Hội Văn học Thừa Thiên - Huế đã xuất bản tập Thơ Ngô Kha - gồm 3 tập thơ của anh xuất bản trước 1975: Hoa cô độc, Ngụ ngôn của người đãng trí, Trường ca hòa bình.
Thư gửi Ngô Kha là bài viết của Trịnh Công Sơn đã đăng trên tập san in ronéo tại miền Nam mà nay đã tuyệt bản, chúng tôi chọn in lại để thấy được thái độ dấn thân của Trịnh Công Sơn trong những ngày mà anh đã viết các ca khúc phản chiến nổi tiếng như Kinh Việt Nam, Ta phải thấy mặt trời..." (trang 26).
Dựa vào đâu tôi chọn in lại Thư gửi Ngô Kha?
Trong nhiều ngày tìm kiếm tư liệu để làm tập sách trên, tôi đặc biệt chú ý đến bộ Đối Diện, có lúc đổi tên thành Đứng Dậy - mà tôi giữ được gần như trọn bộ. Tạp chí Đứng Dậy này số 64 - 65 phát hành vào dịp Giáng sinh năm 1974, khổ 13x19 cm, dày 160 trang, không kể bìa; là báo "lậu", vì thế nó không in typo như thường lệ mà chỉ in ronéo, ở bìa 4 cho biết "chủ nhiệm: Linh mục Trần Tam Tỉnh; tòa soạn: CP Box 334 Sillery, P.Q. Canada" (!). Nhân đây, xin nhắc lại một chi tiết nhỏ để thấy bản lĩnh của những người làm báo miền Nam chống đối chế độ phát xít Nguyễn Văn Thiệu. Dù không được chế độ ngụy Sài Gòn cấp giấy phép nhưng họ đã ghi rõ đây là tờ báo thực hiện theo "giấy phép số: Điều 11 Hiệp định Ba Lê ngày 27/11/1974; bổ túc bởi Điều 9 TTC ngày 13/9/1973". Thế thì, dựa vào Điều 11, trong đó có quyền "tự do báo chí" thì họ cứ ra báo, bất chấp dùi cui, lựu đạn cay và tù ngục... Nhờ vậy, nay ta mới có được nhiều tài liệu quý về phong trào đấu tranh đô thị miền Nam.
Cũng trong số báo Đứng Dậy này, tòa soạn đã dành từ trang 81 đến trang 143 công khai đòi hỏi chính quyền Sài Gòn trả lời về trường hợp Ngô Kha bị thủ tiêu. Ngoài "Tuyên cáo của các giáo sư, văn nghệ sĩ Huế về việc bắt giữ Ngô Kha cuối năm 1972", "Thư đòi con" của bà cụ Cao Thị Uẩn - mẹ Ngô Kha viết ngày 25/12/1974 gửi Tổng thống VNCH, chủ tịch thượng nghị viện, hạ nghị viện, tối cao pháp viện và nhiều bài viết khác thì còn có lá thư của Trịnh Công Sơn với tựa "Lá thư gửi cho người đang ở trong tù hay đã bị thủ tiêu" (từ trang 107 - 114). Gọi là thư, nhưng thực ra đây là một bài viết nhằm bày tỏ một quan điểm chính trị, đăng báo công khai; chứ không phải lá thư viết với mục đích gửi đến tận tay người nhận. Thông thường đôi lúc người ta chọn hình thức này, vì qua đó cách trình bày vấn đề thân mật hơn, giàu cảm xúc hơn, như đang chuyện trò với một người thân chứ không phải tranh luận... Không riêng gì Trịnh Công Sơn mà đã có nhiều nhà văn chọn cách viết này. Do đó, dù giữa người viết thư và người nhận thư "ngoài quan hệ tình bạn còn có mối quan hệ khác" như anh Thái Ngọc San cho biết thì việc không còn lưu giữ "lá thư" này cũng là lẽ tất nhiên.
Qua văn bản này ta thấy gì?
NS Trịnh Công Sơn với NS Đinh Cường và nhà văn Nguyễn Tuân (từ trái sang phải). Thứ nhất, vấn đề thời điểm mà anh Thái Ngọc San nêu ra, theo anh lá thư Trịnh Công Sơn viết năm 1974 là không hợp lý vì năm 1973, Ngô Kha đã bị thủ tiêu. Đó là chuyện sau này ta mới khẳng định như thế, chứ ngay trong năm 1974, chưa một ai dám quả quyết là Ngô Kha còn sống hay đã bị thủ tiêu. Chứng cứ là ngay cả bà cụ Uẩn, lúc đó đã 80 xuân, khi kết thúc "Thư đòi con" còn viết: "Con trai tôi có tội gì xin chính quyền cho biết và xin đưa ra tòa án xét xử. Nếu nó vô tội, xin thả nó về với gia đình, với học sinh của nó. Nếu có bằng chứng buộc tội, xin tuyên án nó một cách công khai minh bạch" (trang 85). Chứng cứ là trong "Tuyên cáo của các giáo sư, văn nghệ sĩ Huế về việc bắt giữ Ngô Kha cuối năm 1972" - trong đó có chữ ký của Trịnh Công Sơn - ký ngày 4/11/1974 còn nêu rõ: "Chúng tôi tha thiết kêu gọi tất cả mọi đoàn thể, tổ chức liên quan đến việc cải thiện chế độ lao tù và chống áp bức trên thế giới can thiệp kịp thời và làm sáng tỏ trường hợp GS Ngô Kha, đồng thời đòi chính quyền phải tức khắc trả tự do cho GS Ngô Kha như Hiệp định Paris đã quy định".
Thứ hai, về những từ, cụm từ trong thư, theo anh San "vốn rất xa lạ với Trịnh Công Sơn" thì cũng không có gì khó hiểu. Có thể lúc ấy, bằng sự nhạy cảm chính trị của một người trực tiếp sống trong phong trào đấu tranh đô thị miền Nam, tiếp xúc với nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội nên Trịnh Công Sơn đã tiếp thu những vốn từ ấy. Ai dám quả quyết trước 1975, anh Sơn chưa một lần tiếp xúc với "Việt cộng", với "cán bộ nằm vùng" để nghe nói đến "tiêu diệt tự do tư tưởng", "tập thể nhân dân", "vấn đề tổ chức cơ cấu"? Mà "Việt cộng" với "cán bộ nằm vùng" nào ở đâu xa, ở ngay trong đám bạn bè thân cận nhất của anh Sơn như Chu Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Bửu Chỉ, Võ Quê, Tôn Thất Lập... trong trường học của mỗi người, trong nhà mình đấy thôi! Đó là một thực tế của lịch sử, một điều kỳ diệu của cuộc chiến tranh nhân dân tại Việt Nam.
Cuối cùng, tôi cũng xin khẳng định lá thư này đã công bố trên tạp chí Đứng Dậy, một tờ báo nổi tiếng "vác chiếu hầu tòa" nhiều nhất tại miền Nam vì vi phạm Luật Báo chí của chính quyền Sài Gòn thì không thể là một lá thư của "ai đó" bịa ra. Hơn nữa, thông qua một lá thư, theo đánh giá của anh Thái Ngọc San là "thể hiện rõ ràng quan điểm của mình", nếu không phải do Trịnh Công Sơn viết thì chắc chắn ngay thời điểm đó anh Sơn đã lên tiếng phản đối. Bởi lẽ, một lá thư lên án chế độ đăng công khai như thế sẽ làm người viết bị liên lụy, thậm chí bị bỏ tù như chơi!
Tóm lại, qua lá thư này, chúng ta hiểu hơn nữa con người chính trị của Trịnh Công Sơn. Bên cạnh những tình khúc lứa đôi, anh Sơn còn là một người dấn thân - một người đã sống và thở những nhịp thở của một dân tộc một thời vùng lên chống bạo lực, áp bức để đòi tự do và thống nhất. Như chúng ta đã biết, nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn trong Ca khúc da vàng đã có những tư tưởng rất dấn thân như câu hát “Một bầy thú tay sai cho người ngoài” trong một bài hát anh viết riêng cho các sinh viên - học sinh bị chế độ cũ cầm tù và tra tấn dã man thời đó. Cho nên ở đâu đó, một tổ chức quốc tế nào đó đã có một giải thưởng âm nhạc về hòa bình cho Trịnh Công Sơn của Việt Nam thì tôi cho đó là một đánh giá rất tốt đối với nền âm nhạc chung của đất nước chúng ta.
Ngày 27/6/2004
Lê Minh Quốc
Thanh Niên online, 29/06/2004
Các thao tác trên Tài liệu